Download communication communication business communication business and more Summaries Effective Business Communication in PDF only on Docsity! 1 CHƯƠNG 4 SỰ KHÁC BIỆT VỀ VĂN HOÁ* MỤC TIÊU HỌC PHẦN Sau khi đọc xong chương này, bạn có thể: LO1 Giải thích thế nào là văn hoá xã hội LO2 Nhận biết các tác nhân dẫn đến sự khác biệt trong văn hoá xã hội LO3 Nhận biết ý nghĩa của sự khác biệt văn hoá đối với nền kinh tế và hoạt động kinh doanh LO4 Nhận biết mức độ ảnh hưởng của sự khác biệt văn hoá xã hội đến giá trị tại nơi làm việc. LO5 Nhận thức ý nghĩa của sự thay đổi văn hoá đối với nền kinh tế và hoạt động kinh doanh. Lời mở đầu Ở Chương 2 và Chương 3, ta đã nhận thức được những khác biệt trong hệ thống kinh tế, chính trị, và pháp lý ảnh hưởng thế nào đến lợi ích, chi phí và rủi ro của việc kinh doanh giữa các quốc gia. Trong chương này, ta sẽ tìm hiểu sự khác biệt trong văn hoá xuyên quốc gia hay trong cùng một quốc gia ảnh hưởng thế nào đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Có một vài chủ đề sẽ được thảo luận ở chương này. Đầu tiên là sự thành công trong kinh doanh ở các quốc gia khác nhau đòi hỏi kỹ năng hiểu biết sự khác biệt về văn hoá. Kỹ năng hiểu biết sự khác biệt về văn hoá là hiểu được sự khác biệt về văn hoá xuyên quốc gia và trong cùng một quốc gia có thể ảnh hưởng thế nào đến cách thức kinh doanh của doanh nghiệp. Trong bối cảnh truyền thông toàn cầu, phương tiện vận tải nhanh chóng, thi trường rộng khắp thế giới, và các thương hiệu phổ biến trên toàn cầu như ngày nay, kỷ nguyên của ngôi làng toàn cầu dường như chỉ xoay quanh một góc nhỏ, điều đó khiến ta dễ dàng quên đi sự khác biệt về văn hoá thật sự là như thế nào. Dưới vẻ ngoài hiện đại, thật ra sự khác biệt về văn hoá vẫn còn tồn tại sâu sắc. Ví dụ, nhiều người dân Ả Rập Xê-út đang sở hữu ngày càng nhiều các sản phẩm vật chất của xã hội hiện đại. Đặc biệt là các thành phố Saudi dường như rất hiện đại với các toà cao ốc văn phòng, cửa hàng, trung tâm mua sắm, và đường cao tốc. Tuy nhiên, dưới vẻ ngoài hiện đại theo phong cách phương Tây, các giá trị văn hoá lâu đời bắt nguồn từ truyền thống của những người Ả Rập du cư và chủ nghĩa Wahhab hà khắc của Hồi giáo vẫn có những ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội. Các nhà quản lý ngoại quốc ở Ả rập Xê-út cần nhận thức về những truyền thống này và cách chúng tác động đến quá trình kinh doanh ở đây. Từ ví dụ trên, ta sẽ thảo luận trong chương này tầm quan trọng của việc các nhà quản lý nước ngoài cần có sự biểu biết về văn hoá thịnh hành trong những quốc gia mà họ kinh doanh và để thành công thì doanh nghiệp nước ngoài cần phải thích nghi với nền văn hoá của nước chủ nhà. Một chủ đề khác được đề cập ở chương này là mối quan hệ giữa văn hoá và chi phí kinh doanh ở một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Các nền văn hóa khác nhau có thể hỗ trợ ít hoặc nhiều cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thể làm tăng hoặc giảm chi phí kinh doanh. Ví dụ, một số nhà quan sát cho rằng các yếu tố văn hóa đã làm giảm chi phí kinh doanh ở Nhật Bản và giải thích cho việc đi lên nhanh chóng của nền kinh tế Nhật Bản trong * Nội dung của chương này được dịch bởi Ngô Thanh Trà từ chương 4, sách International Business (9th ed) của tác giả Charles W.L. Hill. Phần dịch này được dùng để làm tài liệu tham khảo hỗ trợ cho hoạt động giảng dạy, không dùng cho mục đích kinh doanh hay thương mại. 2 những năm 1960, 1970 và 1980. Tương tự như vậy, các yếu tố văn hóa đôi khi có thể làm tăng chi phí kinh doanh. Trong lịch sử, sự phân chia giai cấp là một đặc điểm quan trọng của nền văn hóa Anh, và trong suốt một thời gian dài, các công ty hoạt động tại Vương quốc Anh rất khó khăn để có được sự hợp tác giữa tầng lớp quản trị và người lao động. Sự phân chia giai cấp dẫn đến mức độ xung đột cao ở đất nước này suốt những năm 1960 và 1970, làm tăng chi phí kinh doanh cao hơn so với các nước khác như Thụy Sĩ, Na Uy, Đức, Nhật Bản, nơi mà mâu thuẫn giai cấp là ít phổ biến trong lịch sử. Tuy nhiên, ví dụ về người Anh mang đến cho chúng ta một chủ đề khác sẽ được tìm hiểu trong chương này. Văn hóa không phải là một khái niệm tĩnh. Nó có thể phát triển, mặc dù tốc độ thay đổi văn hoá lại là một câu chuyện khác. Các khía cạnh quan trọng của văn hóa Anh đã thay đổi đáng kể trong hơn 30 năm qua, và điều này được phản ánh trong việc phân biệt giai cấp không còn sâu sắc và các cuộc tranh chấp trong công nghiệp cũng giảm đi. Từ giữa những năm 1995 đến năm 2005, số ngày làm việc bị mất trên 1.000 công nhân do các cuộc đình công ở Vương quốc Anh trung bình là 28 ngày một năm, ít hơn đáng kể so với Mỹ (33 ngày), Ireland (81 ngày), và Canada (168 ngày). Cuối cùng, điều quan trọng cần lưu ý là chính các công ty đa quốc gia có thể là động lực cho sự thay đổi văn hóa. Tại Ấn Độ là một ví dụ, McDonald và các công ty kinh doanh thức ăn nhanh phương Tây có thể làm thay đổi văn hóa ẩm thực của quốc gia này, lôi kéo họ ra khỏi những nhà hàng truyền thống và hướng tới các cửa hàng thức ăn nhanh. Văn hoá là gì? LO1 Các học giả chưa bao giờ thống nhất với nhau về một định nghĩa đơn giản về văn hóa. Trong những năm 1870, nhà nhân chủng học Edward Tylor đã định nghĩa văn hóa là “một phức hệ bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán, và năng lực khác của con người khi là một thành viên của xã hội”. Kể từ đó, hàng trăm định nghĩa khác về văn hoá đã được đưa ra. Geert Hofstede, một chuyên gia trong lĩnh vực khác biệt văn hóa và quản trị, định nghĩa văn hóa là “những chương trình có tính chất tập thể đã tồn tại sẵn trong tư tưởng để phân biệt thành viên của một nhóm người này với một nhóm người khác... Văn hóa, theo nghĩa này, bao gồm hệ thống các giá trị; và giá trị là một trong những khối xây dựng nên văn hóa”. Một định nghĩa khác về văn hóa của nhà xã hội học Zvi Namenwirth và Robert Weber cho rằng, văn hóa là một hệ thống các quan niệm và những quan niệm này cấu thành nên lối sống. Ở đây chúng ta sẽ kết hợp cả Hofstede, Namenwirth và Weber bằng cách xem văn hoá là một hệ thống các giá trị và chuẩn mực được một cộng đồng người cùng chia sẻ và khi kết hợp lại sẽ tạo nên lối sống. Giá trị là ý niệm trừu tượng về những gì mà cộng đồng cho là tốt đẹp, là đúng đắn và khát khao có được. Nói cách khác, giá trị là sự công nhận chung về mọi thứ nên được làm như thế nào. Chuẩn mực là các quy tắc và hướng dẫn của xã hội quy định hành vi thích hợp trong các tình huống cụ thể. Chúng ta sẽ sử dụng thuật ngữ xã hội để chỉ một nhóm người có chung giá trị và chuẩn mực. Mặc dù một xã hội có thể tương đương với một quốc gia, một số quốc gia có thể bao gồm nhiều xã hội (tức là có nhiều nền văn hóa), và một số xã hội có thể bao trùm nhiều hơn một quốc gia. Giá trị và chuẩn mực Giá trị hình thành nền tảng cho một nền văn hóa. Giá trị tạo ra bối cảnh để các chuẩn mực xã hội được hình thành và khẳng định. Giá trị có thể bao gồm thái độ của xã hội đối với những vấn đề như tự do cá nhân, dân chủ, sự thật, công bằng, sự trung thực, lòng trung thành, nghĩa vụ xã hội, trách nhiệm tập thể, vai trò của phụ nữ, tình yêu, giới tính, hôn nhân, v.v... Giá trị không chỉ là những ý niệm trừu tượng mà còn có ý nghĩa cực kỳ to lớn về mặt cảm xúc. 5 các giá trị ở xã hội cộng sản Bắc Triều Tiên là tự do, công bằng và thành tựu cá nhân rõ ràng là khác với các giá trị của nước Mỹ, chính vì mỗi xã hội vận hành theo triết lý chính trị và kinh tế khác nhau. Dưới đây chúng ta sẽ thảo luận về ảnh hưởng của cấu trúc xã hội, tôn giáo, ngôn ngữ và giáo dục. Chuỗi các mối quan hệ nhân quả này tác động cả hai chiều. Trong khi các yếu tố như cấu trúc xã hội và tôn giáo ảnh hưởng rõ ràng đến giá trị và chuẩn mực trong xã hội, các giá trị và chuẩn mực lại có thể ảnh hưởng đến cấu trúc xã hội và tôn giáo. HÌNH 4.1. Các yếu tố góp phần hình thành văn hoá Cấu trúc xã hội Cấu trúc xã hội đề cập đến tổ chức cơ bản của xã hội. Mặc dù cấu trúc xã hội bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó có hai tiêu chí đặc biệt quan trọng giải thích cho sự khác biệt giữa các nền văn hóa. Tiêu chí thứ nhất là mức độ một đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội là cá nhân, đối lập với nhóm. Nhìn chung, xã hội phương Tây có xu hướng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cá nhân, còn nhóm đóng vai trò quan trọng hơn trong nhiều xã hội khác. Tiêu chí thứ hai là mức độ mà một xã hội được phân chia thành các tầng lớp hoặc các đẳng cấp. Một số xã hội được đặc trưng bởi mức độ phân chia giai tầng xã hội tương đối cao và khả năng thay đổi địa vị cá nhân tương đối thấp (ví dụ như Ấn Độ); các xã hội khác lại đặc trưng bởi mức độ phân chia giai tầng xã hội tương đối thấp và khả năng thay đổi địa vị cá nhân tương đối cao (ví dụ như Mỹ). Cá nhân và nhóm Nhóm là một tập hợp của hai hay nhiều cá nhân có cùng đặc tính và tương tác với nhau theo những cách thức có cấu trúc trên nền tảng có cùng kỳ vọng về cách hành xử. Đời sống xã hội của con người là đời sống theo nhóm. Cá nhân là một tế bào của gia đình, các nhóm làm việc, các nhóm xã hội, các nhóm giải trí, v.v… Tuy nhiên, mặc dù nhóm tồn tại trong tất cả các xã hội, nhưng các xã hội khác nhau ở chỗ mức độ mà nhóm được xem như là thành phần chính của cấu trúc xã hội. Trong một số xã hội, sự đóng góp của cá nhân và thành tựu cá nhân được xem là quan trọng hơn nhóm; nhưng trong một số xã hội khác thì ngược lại. Cá nhân Trong chương 2, chúng ta đã thảo luận chủ nghĩa cá nhân theo triết lý về chính trị. Tuy nhiên, chủ nghĩa cá nhân không chỉ là một triết lý chính trị trừu tượng. Trong nhiều xã hội phương Tây, cá nhân là khối xây dựng cơ bản nên tổ chức xã hội. Điều này được phản ánh không chỉ trong tổ chức chính trị và kinh tế của xã hội mà còn trong cách mọi người nhìn 6 nhận bản thân họ và quan hệ với người khác trong môi trường xã hội và kinh doanh. Ví dụ, hệ giá trị của nhiều xã hội phương Tây thường nhấn mạnh đến thành tích cá nhân. Địa vị xã hội của cá nhân không phụ thuộc nhiều vào vấn đề họ làm việc cho ai mà phụ thuộc vào thành tích họ đạt được trong môi trường làm việc họ chọn. Sự nhấn mạnh đến thành tích cá nhân trong nhiều xã hội phương Tây cũng có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Tại Mỹ, sự nhấn mạnh thành tích cá nhân thể hiện ở việc hoan nghênh những cá nhân xuất thân từ trong gian khó và tinh thần khởi nghiệp. Mặt tích cực của điều này là các hoạt động khởi nghiệp diễn ra sôi nổi tại Mỹ và nhiều xã hội phương Tây khác. Cá nhân khởi nghiệp ở Mỹ đã tạo ra nhiều sản phẩm mới và cách thức kinh doanh mới (như máy tính cá nhân, máy photocopy, phần mềm máy tính, công nghệ sinh học, siêu thị, các cửa hàng bán lẻ có giảm giá). Người ta có thể cho rằng sự năng động của nền kinh tế Mỹ phụ thuộc nhiều vào triết lý chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân cũng thể hiện ở mức độ thay đổi công việc trong cấp quản trị giữa các công ty, điều mà không hẳn là tốt. Mặc dù đối với cá nhân, việc chuyển dịch từ một công ty này sang một công ty khác là tốt để có được hồ sơ xin việc ấn tượng, nhưng điều đó không hẳn tốt cho công ty của Mỹ. Thiếu lòng trung thành và cam kết với công ty, và xu hướng chuyển sang một nơi tốt hơn, có thể tạo nên các nhà quản lý có kỹ năng chung tốt nhưng thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm và mối quan hệ cá nhân tích luỹ từ nhiều năm làm việc trong cùng một công ty. Một người quản lý giỏi là người dựa trên kinh nghiệm cụ thể của tổ chức hiện tại, áp dụng kiến thức, mối quan hệ cá nhân trong nội bộ để giải quyết các vấn đề hiện tại trong tổ chức đó, và các công ty Mỹ có thể bị ảnh hưởng nếu các nhà quản lý của họ thiếu những đặc tính này. Một khía cạnh tích cực của mức độ thay đổi công việc ở cấp quản trị là các nhà điều hành được tiếp xúc với nhiều cách thức kinh doanh khác nhau. Khả năng so sánh các cách thức kinh doanh giúp họ xác định cách thức và kỹ thuật nào tốt nhất đã được phát triển trong công ty cũ để mang lại nhiều lợi ích khi áp dụng trong công ty mới. Sự đề cao chủ nghĩa cá nhân cũng có thể gây khó khăn khi xây dựng đội nhóm trong tổ chức để thực hiện công việc chung. Nếu mỗi cá nhân luôn cạnh tranh với nhau để giành lấy thành tích cao, điều đó có thể gây khó khăn khi hợp tác. Một nghiên cứu về khả năng cạnh tranh của Mỹ do Viện Công nghệ Massachusetts cho rằng, các công ty Mỹ bị tổn thất trong nền kinh tế toàn cầu bởi họ thất bại để đạt được sự hợp tác trong công ty (ví dụ, giữa các phòng ban chức năng, giữa tầng lớp quản lý và người lao động) và giữa các công ty (ví dụ, giữa công ty với nhà cung cấp). Với sự tôn sùng chủ nghĩa cá nhân trong hệ giá trị của Mỹ thì thất bại này không phải là điều đáng ngạc nhiên. Việc đề cao chủ nghĩa cá nhân ở Mỹ một mặt tạo nên nền kinh tế khởi nghiệp đầy năng động nhưng cũng có thể làm tăng chi phí kinh doanh do tác động tiêu cực của sự di chuyển công việc ở cấp quản trị và khả năng hợp tác. Nhóm Trái ngược với sự nhấn mạnh tính cá nhân của phương Tây, trong nhiều xã hội khác thì nhóm lại là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội. Ví dụ, tại Nhật Bản, địa vị xã hội của một cá nhân được quyết định bởi chỗ đứng của nhóm mà anh ta thuộc về và cả thành tích cá nhân mà anh ta đạt được. Trong xã hội truyền thống Nhật Bản, nhóm là gia đình hoặc ngôi làng của cá nhân đó. Ngày nay, nhóm thường chỉ về nhóm làm việc hoặc tổ chức kinh doanh của cá nhân đó. Trong một nghiên cứu từ cổ điển đến hiện đại về xã hội Nhật Bản, Nakane lưu ý điều dưới đây có thể thường gặp trong cuộc sống hàng ngày: Khi một người Nhật Bản thể hiện ra bên ngoài (đứng trước một người khác) và nói về vị trí xã hội của mình, anh ta có khuynh hướng ưu tiên giới thiệu về tổ chức hơn là về nghề nghiệp của mình. Thay vì nói, "Tôi là một người chuyên đánh máy chữ" hoặc "Tôi là một văn thư", anh ta thường nói, "Tôi đến từ Nhà xuất bản B" hoặc "Tôi làm trong công ty S." 7 Nakane tiếp tục quan sát thấy việc cá nhân đề cao nhóm của mình thường phát triển thành sự gắn bó tình cảm sâu sắc, trong đó mối liên kết với nhóm trở thành điều hết sức quan trọng trong cuộc sống của một con người. Một giá trị trung tâm của văn hóa Nhật Bản là tầm quan trọng gắn liền với thành viên nhóm. Điều này có thể có những tác động tích cực cho các doanh nghiệp trong kinh doanh. Sự gắn bó chặt chẽ với nhóm tạo động lực cho các cá nhân hết lòng giúp đỡ nhau và hành động chung vì tập thể. Nếu giá trị của cá nhân gắn liền với thành tựu của nhóm (là công ty), như Nakane xác nhận trong trường hợp ở Nhật Bản, điều này tạo ra một động lực mạnh mẽ cho từng thành viên của nhóm làm việc cùng nhau vì lợi ích chung. Một số người cho rằng sự thành công của các doanh nghiệp Nhật Bản trong nền kinh tế toàn cầu một phần dựa vào khả năng đạt được sự hợp tác chặt chẽ giữa các cá nhân trong công ty và giữa các công ty với nhau. Điều này thể hiện bằng sự khuếch tán rộng khắp các các nhóm làm việc tự quản trong các tổ chức của Nhật Bản, sự hợp tác chặt chẽ giữa các phòng ban chức năng trong công ty (ví dụ, giữa bộ phận sản xuất, tiếp thị và R&D), và sự hợp tác giữa công ty và các nhà cung cấp trong các vấn đề về thiết kế, kiểm soát chất lượng, và giảm hàng tồn kho. Trong tất cả các trường hợp trên, nhu cầu nâng cao năng suất nhóm (là các công ty kinh doanh) đã tạo động lực cho sự hợp tác. Việc đề cao giá trị của tinh thần gắn bó với nhóm khuyến khích các nhà quản lý và người lao động không chuyển đổi công việc giữa các công ty. Làm việc suốt đời trong một công ty là chuẩn mực trong suốt một thời gian dài ở một số lĩnh vực nhất định của nền kinh tế Nhật Bản (ước tính từ 20 đến 40 phần trăm các nhân viên người Nhật được bảo đảm chính thức hoặc không chính thức về việc làm trong suốt cuộc đời). Theo thời gian, các nhà quản lý và nhân công cùng nhau xây dựng kiến thức, kinh nghiệm và mạng lưới các quan hệ kinh doanh giữa các cá nhân. Tất cả những điều đó giúp các nhà quản lý thực hiện công việc của họ hiệu quả hơn và đạt được hợp tác tốt hơn với các thành viên khác. Tuy nhiên, việc nhóm chiếm ưu thế không phải luôn luôn có lợi. Cũng như xã hội Mỹ được đặc trưng bởi tính năng động và tinh thần khởi nghiệp nhờ sự đề cao giá trị của cá nhân, một số người cho rằng đặc trưng xã hội Nhật Bản thiếu tính năng động và tinh thần khởi nghiệp. Mặc dù những hệ quả lâu dài vẫn chưa rõ ràng, nhưng nước Mỹ vẫn tiếp tục tạo ra ngành công nghiệp mới hơn Nhật Bản và vẫn tiếp tục thành công khi là người tiên phong đưa ra những sản phẩm mới và những cách thức kinh doanh mới. Sự phân chia giai tầng xã hội LO2 Tất cả các xã hội được phân tầng trên cơ sở phân cấp thành các loại - đó là các tầng lớp xã hội. Tầng lớp xã hội thường được xác định dựa vào các đặc điểm như nền tảng gia đình, nghề nghiệp và thu nhập. Mỗi cá nhân được sinh ra trong một tầng lớp xã hội nhất định. Họ là thành viên của nhóm xã hội mà cha mẹ họ thuộc về. Những người sinh ra trong tầng lớp trên của hệ thống phân tầng xã hội thường có nhiều cơ hội sống tốt hơn so với những người sinh ra trong một tầng lớp thấp. Họ được hưởng nền giáo dục, điều kiện y tế, mức sống, và cơ hội việc làm tốt hơn. Mặc dù tất cả các xã hội đều có sự phân tầng ở mức độ nhất định, nhưng chúng vẫn khác nhau theo hai cách. Thứ nhất, chúng khác nhau ở mức độ chuyển dịch giữa các tầng lớp xã hội với; thứ hai, chúng khác nhau ở mức độ ý nghĩa của các tầng lớp xã hội trong bối cảnh kinh doanh. Khả năng thay đổi địa vị xã hội cá nhân Khả năng thay đổi địa vị xã hội cá nhân đề cập đến mức độ mà cá nhân có thể thoát khỏi tầng lớp xã hội mà họ sinh ra. Khả năng thay đổi địa vị cá nhân thay đổi đáng kể từ xã hội này sang xã hội khác. Hệ thống cứng nhắc nhất của sự phân chia giai tầng là hệ thống đẳng cấp. Một hệ thống đẳng cấp là một hệ thống khép kín của sự phân chia giai tầng trong đó vị 10 TIÊU ĐIỂM QUỐC GIA Guanxi Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong vai trò là quyền lực về kinh tế, chính trị và sức mạnh về quân sự trong tương lai, là mối quan tâm của tất cả các nước. Chỉ trong hơn 30 năm, Trung Quốc đã vươn lên từ một nước kinh tế lạc hậu trở thành một siêu cường quốc về kinh tế. Dưới ngòi bút của các nhà báo phương Tây, Trung Quốc được mô tả vừa là bạn, vừa là kẻ thù tiềm năng vì họ vừa nể phục vừa sợ tiềm năng của quốc gia này. Các nước bắt đầu muốn kinh doanh tại Trung Quốc, với Trung Quốc và với các công ty đang phát triển của Trung Quốc. Khi các thị trường truyền thống không còn hấp dẫn, Châu Á nổi như là thị trường màu mỡ cứu cánh cho nhiều quốc gia. Để làm ăn với các công ty Châu Á và đặc biệt là các công ty ở Trung Quốc đòi hỏi phải có tư duy khác biệt. Việc áp dụng các mô hình kinh doanh của Anh hay Châu Âu thì tốt nhưng cần xem xét cẩn thận và xem xét các yếu tố bên trong cách thức kinh doanh của người Châu Á và Trung Quốc. Trung Quốc quá mạnh, quá rộng lớn và đa dạng về văn hoá nên không thể xếp Trung Quốc như một loại Châu Á ở phía bắc bán cầu. Cách người Châu Á làm kinh doanh sẽ tác động đến mô hình kinh doanh và các nhà đầu tư phương Tây vì cách thức kinh doanh theo kiểu đi đường vòng. Chìa khoá để hiểu người Trung Quốc làm kinh doanh thế nào là chấp nhận thuật ngữ Guanxi. Từ này có nhiều ý nghĩa ở tiếng Anh nhưng dịch là “mối quan hệ” thì gần đúng nhất với ngữ cảnh kinh doanh. Đơn giản vì, không phải đối tượng mà một người nào đó quen biết thì ai cũng có thể quen biết. Mối quan hệ càng chặt chẽ sẽ tạo nền tảng quyền lực và từ đó sẽ giúp bạn giải quyết trơn tru mọi việc. Các công ty nên chú ý tạo dựng các mối quan hệ với những người có quyền lực hoặc những người thân cận quyền lực, nếu không việc kinh doanh sẽ rất khó khăn. Nhiều công ty đa quốc gia khi thâm nhập vào thị trường Trung Quốc, việc đầu tiên và không có lựa chọn nào khác là phải liên doanh với một công ty Trung Quốc để công việc kinh doanh thuận lợi hơn, dù điều này cũng mang đến không ít phiền toái. Vấn đề này không giống như hệ thống đẳng cấp cứng nhắc ở Ấn Độ. Đó vừa là sự ban ơn vừa là sự khinh thường. Nó bao gồm nhiều mối quan hệ chồng chéo phức tạp bạn cần phải biết và hiểu ai ngồi vị trí nào và cách thức tiếp cận họ ra sao để đạt được các cơ hội mong muốn. Đây là sự chuyển biến về mặt nhận thức cho các nhà quản lý của các công ty đa quốc gia. Tại sao họ không thể nắm bắt được những cơ hội đang đến, tại sao họ phải được sự đồng thuận của những người bên ngoài công ty để làm kinh doanh? Điều này có thể gần giống thời chủ nghĩa phong kiến hay sự chiếu cố của bề trên nhưng nó lại xảy ra ở một nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới và không có nghĩa mọi thứ cũng phát triển cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do vậy việc kinh doanh ở đây không thể theo quy tắc của chủ nghĩa tư bản thị trường hay quy tắc của nhiều nơi khác trên thế giới. Thay vào đó, như đã đề cập ở trên, ý thức về giai cấp có thể xuất hiện trở lại trong các đô thị Trung Quốc, và nó có thể được chứng minh là có tác động đến hoạt động kinh doanh. Mối quan hệ đối kháng giữa tầng lớp quản lý và tầng lớp lao động, kết quả của sự thiếu hợp tác và mức độ chia rẽ lao động cao, có xu hướng làm tăng chi phí sản xuất ở những quốc gia có sự phân chia giai tầng đáng kể. Từ đó, chi phí cao hơn có thể làm cho các công ty có trụ sở tại quốc gia này khó khăn hơn để tạo nên lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Hệ thống đạo đức và tôn giáo LO1 Tôn giáo là những tín ngưỡng và lễ nghi mang ý nghĩa thiêng liêng trong đời sống tâm linh được một cộng đồng cùng chia sẻ. Hệ thống đạo đức là một tập hợp các nguyên tắc, các giá trị về đạo đức, được dùng để hướng dẫn và định hình hành vi của con người. Hầu hết các hệ thống đạo đức trên thế giới đều là sản phẩm của tôn giáo. Do đó, chúng ta có thể nói về đạo 11 đức Cơ đốc giáo và đạo đức Hồi giáo. Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ các nguyên tắc của hệ thống đạo đức không được bắt nguồn từ tôn giáo. Nho giáo và đạo đức Nho giáo ảnh hưởng đến hành vi và định hình phần lớn nền văn hóa ở châu Á, tuy nhiên không chính xác nếu coi Nho giáo là một tôn giáo. Mối quan hệ giữa tôn giáo, đạo đức và xã hội rất tinh tế và phức tạp. Trong số hàng ngàn tôn giáo trên thế giới ngày nay, bốn tôn giáo lớn chiếm ưu thế về số lượng tín đồ là: Cơ đốc giáo với 1,9 tỷ tín đồ, Hồi giáo với khoảng 1,2 tỷ tín đồ, Ấn Độ giáo với 750 triệu tín đồ (chủ yếu ở Ấn Độ), và Phật giáo với 350 triệu tín đồ (xem bản đồ 4.1). Mặc dù nhiều tôn giáo khác cũng có ảnh hưởng quan trọng ở một số vùng của thế giới hiện đại (ví dụ, Do Thái giáo cũng có 18 triệu tín đồ), tuy số lượng tín đồ của những tôn giáo này chỉ là con số khiêm tốn nếu so sánh với các tôn giáo chiếm ưu thế (là tiền thân của cả Cơ đốc giáo và Hồi giáo, Do Thái giáo có ảnh hưởng gián tiếp vượt xa số lượng tín đồ của nó). Chúng ta sẽ xem xét bốn tôn giáo chính cùng với Nho giáo, tập trung vào ý nghĩa của các tôn giáo này đối với hoạt động kinh doanh. Một số học giả cho rằng ảnh hưởng quan trọng nhất của tôn giáo đến kinh doanh đó là, các tôn giáo khác nhau, ở mức độ nào đó, hình thành thái độ đối với công việc, tinh thần khởi nghiệp và ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh ở một quốc gia. Không nên đưa ra sự khái quát chung chung về bản chất mối quan hệ giữa tôn giáo, hệ thống đạo đức và kinh doanh. Tuy một số học giả cho rằng có mối quan hệ giữa tôn giáo, hệ thống đạo đức và hoạt động kinh doanh trong xã hội, tuy trong thế giới mà các quốc gia có số đông là Thiên chúa giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo đều có bằng chứng cho thấy hoạt động kinh doanh và tăng trưởng kinh tế bền vững, cũng rất cần thiết để xem xét các mối quan hệ trên với sự hoài nghi. Các mối quan hệ trên có thể tồn tại, nhưng ảnh hưởng của chúng có lẽ là nhỏ so với tác động của các chính sách kinh tế. Một nghiên cứu gần đây của nhà kinh tế học Robert Barro và Rachel McCleary cho rằng, tín ngưỡng tôn giáo mạnh mẽ, và đặc biệt là niềm tin vào thiên đường, địa ngục, và một thế giới bên kia trong bất kì tôn giáo nào, có tác động tích cực lên tốc độ tăng trưởng kinh tế. Barro và McCleary xem xét tín ngưỡng tôn giáo và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở 59 quốc gia trong suốt những năm 1980 và 1990. Giả định của họ là tín ngưỡng tôn giáo càng mạnh thì càng kích thích tăng trưởng kinh tế bởi vì tín ngưỡng đó giúp duy trì các khía cạnh của hành vi cá nhân dẫn đến năng suất cao hơn. Biểu đồ 4.1 (chèn) Cơ Đốc Giáo Cơ đốc giáo là tôn giáo được áp dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Khoảng 20 phần trăm dân số thế giới theo đạo Cơ đốc giáo. Phần lớn tín đồ Cơ đốc giáo sống ở châu Âu và châu Mỹ, mặc dù số lượng này cũng đang tăng lên nhanh chóng ở châu Phi. Cơ đốc giáo bắt nguồn từ Do Thái giáo. Giống như Do Thái giáo, đây là một tôn giáo độc thần (thuyết độc thần là niềm tin vào một vị thần). Một bộ phận tôn giáo trong thế kỷ mười một dẫn đến việc thành lập hai tổ chức Cơ đốc giáo - Giáo Hội Thiên chúa giáo La Mã và Giáo Hội Chính Thống phương Đông. Ngày nay, Giáo Hội Thiên chúa giáo La Mã chiếm hơn một nửa tín đồ Cơ đốc giáo, hầu hết là ở miền nam Châu Âu và Châu Mỹ Latin. Giáo Hội Chính Thống phương Đông, tuy có ảnh hưởng ít hơn nhưng vẫn có tầm quan trọng lớn ở một số nước (như Hy Lạp và Nga). Trong thế kỷ 16, một cuộc cải cách đã dẫn đến một sự phân chia hơn nữa ở La Mã; một nhánh thứ ba tách khỏi Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã tạo nên đạo Tin Lành. Bản chất phi quốc giáo của đạo Tin Lành đã tạo điều kiện xuất hiện của nhiều giáo phái trong đạo tin lành (ví dụ, đạo Baptist, Phong trào Giám lý, Thần đạo Calvin). Ý nghĩa kinh tế của Cơ đốc giáo: Đạo đức làm việc của đạo Tin lành 12 Một số nhà xã hội học lập luận rằng trong các nhánh chính của Cơ đốc giáo – Thiên chúa giáo, Chính Thống giáo và Tin Lành thì đạo Tin lành có những tác động kinh tế quan trọng nhất. Năm 1904, nhà xã hội học người Đức, Max Weber, trở nên nổi tiếng khi đưa ra mối liên hệ giữa đạo đức Tin lành và “tinh thần của chủ nghĩa tư bản”. Weber cho rằng chủ nghĩa tư bản xuất hiện ở Tây Âu, nơi mà: các nhà lãnh đạo công ty, chủ sở hữu vốn, các tầng lớp cao hơn của lao động có kĩ năng, và thậm chí là nhiều nhân viên được đào tạo về kỹ thuật và kinh doanh của các doanh nghiệp hiện đại, hầu hết đều theo đạo Tin Lành. Weber đưa ra giả thuyết có một mối quan hệ giữa đạo Tin lành và sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Ông lập luận rằng đạo đức Tin Lành nhấn mạnh tầm quan trọng của làm việc chăm chỉ, tạo ra của cải (vì vinh quang của Đức Chúa trời) và sự thanh đạm (tiết chế những lạc thú ở thế gian). Theo Weber, hệ thống giá trị này cần thiết để tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Những người theo đạo Tin lành làm việc chăm chỉ và có phương pháp để tích lũy của cải. Tuy nhiên, đức tin khổ hạnh xui khiến họ đầu tư mở rộng các doanh nghiệp tư bản thay vì tiêu xài của cải bằng cách thỏa thích tận hưởng những lạc thú thế gian. Do đó, sự kết hợp của làm việc chăm chỉ và sự tích lũy vốn, được sử dụng để tài trợ cho đầu tư và mở rộng sản xuất, đã mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu và sau đó ở Hoa Kỳ. Ngược lại, Weber cho rằng lời hứa của Thiên chúa giáo về sự cứu rỗi linh hồn khi qua thế giới bên kia, chứ không phải ở thế giới này, không tạo điều kiện phát triển cho loại hình đạo đức làm việc như đạo Tin Lành. Đạo Tin Lành cũng khuyến khích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản theo cách khác. Bằng cách phá vỡ sự thống trị thứ bậc của đời sống tôn giáo và đời sống xã hội đặc trưng của Giáo Hội Thiên chúa giáo trong phần lớn lịch sử, đạo Tin lành đã mang lại cho cá nhân nhiều tự do hơn để phát triển mối quan hệ của mình với Đức Chúa trời. Quyền tự do thờ cúng là trung tâm của bản chất phi quốc giáo của đạo Tin lành trước đây. Sự đề cao tự do tôn giáo của cá nhân đã mở đường cho sự đề cao tự do kinh tế, tự do chính trị và sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân như là một triết lý kinh tế và chính trị. Như chúng ta đã thấy ở Chương 2, một triết lý như vậy tạo nền tảng cho chủ nghĩa tư bản thị trường tự do kinh doanh. Từ điều này, một số học giả khẳng định có một mối liên hệ giữa chủ nghĩa cá nhân, được khích lệ từ đạo Tin Lành, và mức độ hoạt động kinh doanh trong một quốc gia. Một lần nữa, người ta phải cẩn thận không khái quát quá nhiều từ quan điểm lịch sử xã hội này. Trong khi các quốc gia có truyền thống đạo Tin lành phát triển như Anh, Đức, và Hoa Kỳ là những người dẫn đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp, thì các quốc gia có đa số người Thiên chúa giáo hay Chính thống giáo lại có hoạt động kinh doanh bền vững, quan trọng và sự tăng trưởng kinh tế trong thế giới hiện đại. Hồi giáo Với khoảng 1,2 tỷ tín đồ, Hồi giáo là tôn giáo chính lớn thứ hai trên thế giới. Hồi giáo ra đời từ năm 610 sau công nguyên, mặc dù lịch Hồi giáo bắt đầu từ năm 622 sau công nguyên, khi nhà tiên tri Muhammad truyền bá giáo lý Hồi giáo. Khi đó, để thoát khỏi sự phản đối ngày càng tăng, Muhammad đã rời thánh địa Mecca đến định cư ở ốc đảo Yathrib, sau này là Medina. Người Hồi giáo chiếm đa số ở hơn 35 quốc gia và sống ở dải đất tiếp giáp từ bờ biển phía Tây Bắc của châu Phi, xuyên qua Trung Đông, đến Trung Quốc và Malaysia ở vùng Viễn Đông. Hồi giáo có nguồn gốc từ cả Do thái giáo và Cơ đốc giáo (Hồi giáo xem Chúa Giêsu là một trong những nhà tiên tri của đức Chúa trời). Gống như Cơ đốc giáo và Do Thái giáo, Hồi 15 Với khuynh hướng ủng hộ cơ chế thị trường, các quốc gia Hồi giáo dễ tiếp nhận các doanh nghiệp quốc tế, miễn là các doanh nghiệp đó hành xử theo cách thức tương đồng với đạo đức của đạo Hồi. Doanh nghiệp nào xem việc kiếm lợi nhuận không công bằng thông qua bóc lột người khác, bởi sự lừa dối, hoặc bằng cách phá vỡ các nghĩa vụ hợp đồng thì không được chào đón tại một quốc gia Hồi giáo. Ngoài ra, ở các nước Hồi giáo, nơi trào lưu chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan đang gia tăng, sự thù địch đối với các doanh nghiệp có chủ sở hữu là người phương Tây sở hữu cũng tăng lên. Một nguyên tắc kinh tế của Hồi giáo là nghiêm cấm việc thanh toán hoặc nhận tiền lãi, vốn được xem là cho vay nặng lãi. Đây không phải chỉ là vấn đề về mặt tôn giáo; ở một số quốc gia Hồi giáo, nó cũng là vấn đề của luật pháp. Kinh Koran dứt khoát lên án tiền lãi, được gọi là riba trong tiếng Ả Rập, như là bóc lột và bất công. Trong nhiều năm, các ngân hàng hoạt động ở các nước Hồi giáo lờ đi sự lên án này, nhưng bắt đầu khoảng cách đây 40 năm, cùng với việc thành lập một ngân hàng Hồi giáo ở Ai Cập, các ngân hàng Hồi giáo được mở ra ở nhiều quốc gia Hồi giáo. Đến năm 2009, hơn 400 ngân hàng Hồi giáo ở trên 50 quốc gia sở hữu khoảng 400 tỷ USD, trong khi 800 tỷ USD được quản lý bởi các quỹ hỗ tương cũng tuân theo các nguyên tắc của Hồi giáo. Ngay cả các ngân hàng thông thường khi thâm nhập thị trường – như Citigroup và HSBC, hai tổ chức tài chính lớn nhất thế giới, cũng cung cấp các dịch vụ tài chính của Hồi giáo. Trong khi chỉ có Iran và Sudan bắt buộc các ngân hàng thông thường tuân theo nguyên tắc của Hồi giáo, ngày càng nhiều các quốc gia Hồi giáo khác, khách hàng có thể lựa chọn giữa ngân hàng thông thường và ngân hàng Hồi giáo. Các ngân hàng thông thường kiếm lợi nhuận dựa trên sự chênh lệch lãi suất họ trả người gửi tiền và mức lãi suất cao hơn họ thu của người vay tiền. Bởi vì các ngân hàng Hồi giáo không thể trả hoặc tính lãi suất, họ phải tìm một cách khác để thu lợi nhuận. Ngân hàng Hồi giáo đã thử nghiệm hai nghiệp vụ ngân hàng khác nhau - mudarabah và murabaha. Hợp đồng mudarabah tương tự như một chương trình chia sẻ lợi nhuận. Theo hợp đồng mudarabah, khi một ngân hàng Hồi giáo cho vay tiền để kinh doanh, thay vì tính lãi cho khoản vay đó, ngân hàng sẽ thu một phần lợi nhuận có được từ đầu tư. Tương tự, khi một doanh nghiệp (hoặc cá nhân) gửi tiền tại một ngân hàng Hồi giáo bằng tài khoản tiết kiệm, tiền gửi được coi là vốn chủ sở hữu trong bất cứ hoạt động nào ngân hàng sử dụng vốn. Như vậy, người gửi tiền sẽ nhận được một phần lợi nhuận từ đầu tư của ngân hàng (thay vì trả tiền lãi) theo một tỷ lệ đã thống nhất. Một số người Hồi giáo khẳng định đây là cơ chế hiệu quả hơn cơ chế ngân hàng của phương Tây, vì nó vừa khuyến khích tiết kiệm dài hạn lẫn đầu tư dài hạn. Tuy nhiên, không có bằng chứng thuyết phục nào cho luận điểm này, và nhiều người tin rằng một hệ thống mudarabah là kém hiệu quả hơn so với một hệ thống ngân hàng phương Tây thông thường. Nghiệp vụ ngân hàng Hồi giáo thứ hai, là hợp đồng murabaha, được sử dụng rộng rãi nhất trong các ngân hàng Hồi giáo trên thế giới, chủ yếu bởi vì nó dễ thực hiện nhất. Trong hợp đồng murabaha, khi một công ty muốn mua thứ gì đó bằng cách sử dụng một khoản vay – ví dụ như một trang thiết bị có chi phí 1.000 USD – công ty sẽ thông báo cho ngân hàng sau khi đàm phán giá với nhà sản xuất thiết bị. Ngân hàng sẽ đi mua thiết bị với giá 1.000 USD, và sau này người đi vay sẽ mua lại từ ngân hàng với giá 1.100 USD, mức giá gồm cả phần tăng 100 USD dành cho ngân hàng. Người hoài nghi có thể chỉ ra rằng phần tăng giá như vậy có chức năng tương đương với một khoản thanh toán lãi vay, và phương pháp này tương tự với phương pháp mà các ngân hàng thông thường sử dụng, thậm chí các ngân hàng thông thường còn làm cho nó dễ dàng áp dụng hơn rất nhiều. 16 TIÊU ĐIỂM QUỐC GIA Chủ nghĩa tư bản Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ Trong nhiều năm, Thổ Nhĩ Kỳ đã vận động hành lang Liên minh Châu Âu cho phép nước này gia nhập khối thương mại tự do như là một quốc gia thành viên. Nếu EU đồng ý, đây sẽ là nhà nước Hồi giáo đầu tiên trong Liên minh. Nhiều nhà phê bình trong EU lo ngại rằng chủ nghĩa tư bản Hồi giáo và chủ nghĩa tư bản theo phong cách phương Tây không phù hợp với nhau, và cho phép Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập vào EU là một sai lầm. Tuy nhiên, xem xét kỹ những gì đang diễn ra ở Thổ Nhĩ Kỳ sẽ thấy rằng quan điểm này có thể không còn phù hợp. Hãy nhìn vào khu vực xung quanh thành phố Kayseri ở miền trung Thổ Nhĩ Kỳ. Nhiều người rời bỏ vùng đất nông nghiệp rộng lớn và nghèo khó này, vốn được biết như một vùng nước đọng không có người Châu Âu sinh sống, biệt lập với sự nhộn nhịp muôn thuở của thủ đô Istanbul. Đó là vùng đất nơi mà các giá trị Hồi giáo truyền thống vẫn còn thống trị. Chưa hết, nó cũng là vùng đất sản sinh rất nhiều doanh nghiệp Hồi giáo lớn mạnh mà đôi khi còn được gọi là “những con hổ của Thổ Nhĩ Kỳ”. Các doanh nghiệp có trụ sở ở đây gồm các nhà sản xuất thực phẩm lớn, các công ty dệt may, nhà sản xuất đồ gỗ, và các doanh nghiệp kỹ thuật, nhiều doanh nghiệp trong số đó xuất khẩu một tỷ lệ đáng kể sản phẩm sản xuất của họ. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp địa phương đóng góp cho sự thành công của công ty trong khu vực bằng một tinh thần kinh doanh mà họ gọi đó là một phần của đạo Hồi. Họ chỉ ra rằng nhà tiên tri Muhammad, vốn cũng là một thương nhân, ca tụng thương nhân là nghề danh dự và truyền rằng 90 phần trăm cuộc đời người Hồi giáo nên cống hiến làm việc để kiếm tiền. Các nhà quan sát bên ngoài đã đi xa hơn khi cho rằng những gì đang xảy ra ở Kayseri là một ví dụ về thần học Calvin của Hồi giáo, một sự hợp nhất các giá trị Hồi giáo truyền thống và đạo đức làm việc của đạo Tin Lành nói chung, và thần học Calvin nói riêng. Tại Kayseri, ảnh hưởng của Hồi giáo có thể nhìn thấy rõ ràng. Nhiều công ty dành riêng các phòng bên trong và thời gian giải lao 15 phút cho mọi người cầu nguyện. Hầu hết các doanh nhân lớn tuổi đều đã hành hương đến thánh địa Mecca, việc làm có ý nghĩa với tất cả người Hồi giáo mà họ cần thực hiện ít nhất một lần trong đời. Trong số ít các quán cà phê và nhà hàng ở Kayseri phục vụ rượu, hầu hết phụ nữ đều đội khăn trùm đầu. Tại nhà máy đường Kayseri, một trong những doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhất khu vực, một nhà quản lý cấp cao cho rằng Hồi giáo đã đóng một vai trò lớn trong việc làm tăng khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Trong suốt một thời gian dài, nhà máy mua phần lớn củ cải đường từ một nhà cung cấp độc quyền duy nhất, người đã đòi mức giá rất cao. Vì đạo Hồi thuyết giáo về cơ hội bình đẳng trong kinh doanh, các nhà quản lý tại nhà máy đường đã quyết định làm theo điều răn của Hồi giáo đó là đa dạng hóa nguồn cung cấp và khuyến khích các nhà sản xuất nhỏ bán củ cải cho họ. Ngày nay, nhà máy mua củ cải đường từ 20.000 người trồng trọt nhỏ. Sự cạnh tranh giữa họ đã làm giá giảm xuống và tăng lợi nhuận của nhà máy. Người quản lý này cũng lưu ý rằng “Nếu bạn không phải là một người Hồi giáo ngoan đạo, không cầu nguyện năm lần một ngày và vợ bạn không đội khăn trùm đầu, bạn có thể gặp khó khăn khi làm kinh doanh ở đây”. Tuy nhiên, không phải ai cũng đồng ý rằng Hồi giáo là động lực cho sự thành công của vùng đất này. Saffet Arslan, giám đốc điều hành của Ipek, nhà sản xuất đồ gỗ lớn nhất trong vùng (doanh nghiệp đã xuất khẩu đến hơn 30 quốc gia) cho rằng một động lực khác cho sự thành công chính là toàn cầu hóa! Theo ông Arslan, trong ba thập kỷ qua, những người Hồi giáo địa phương đã từng né tránh việc kiếm tiền, chỉ tập trung vào tôn giáo thì giờ đây lại đang đặt việc kinh doanh lên trên hết. Họ nhìn thế giới của phương Tây và chủ nghĩa tư bản phương Tây là một hình mẫu, chứ không phải Hồi giáo, vì toàn cầu hóa và các cơ hội đi cùng với nó có thể giúp họ thành công. Đồng thời, ông Arslan là một người Hồi giáo thực hành (là người thực hành theo 5 nền tảng cơ bản của đạo Hồi) đã xây dựng một nhà thờ Hồi giáo ở tầng hầm của tòa nhà trụ sở Ipek để mọi người có thể cầu nguyện tại nơi làm việc. Nếu có một hạn chế trong mô hình kinh doanh Hồi giáo đang nổi lên ở những nơi như Kayseri, đó chính là thái độ truyền thống đối với vai trò của phụ nữ tại nơi làm việc, và tỉ lệ thấp của lao động nữ trong khu vực. Theo một báo cáo của tờ Sáng kiến ổn định Châu Âu, nhóm cũng cho rằng vùng Kayseri là một ví dụ của Thần học hồi giáo Calvin, thì mức độ tham gia thấp của phụ nữ trong lực lượng lao động địa phương được ví như gót chân Achilles của nền kinh tế và có thể cản trở nỗ lực của khu vực trong việc bắt kịp với các nước khác thuộc khối Liên minh Châu Âu. 17 Ấn Độ giáo Ấn Độ giáo có khoảng 750 triệu tín đồ, hầu hết sống ở tiểu lục địa Ấn Độ. Ấn Độ giáo bắt nguồn từ thung lũng Indus ở Ấn Độ hơn 4.000 năm trước đây và trở thành tôn giáo chính lâu đời nhất trên thế giới. Không giống như Cơ đốc giáo và Hồi giáo, nền tảng của Ấn Độ giáo không gắn liền với một cá nhân cụ thể. Ấn Độ giáo cũng không có một cuốn sách thánh chính thức được ban hành như Kinh Thánh hay kinh Koran. Người theo đạo Ấn độ giáo tin vào luân hồi, hay tái sinh vào một cơ thể khác sau khi chết. Ấn độ giáo cũng tin vào nghiệp báo, là sự tiến triển tâm linh trong linh hồn mỗi người. Nghiệp báo của một người bị ảnh hưởng bởi cách sống của họ. Cách sống đạo đức của họ sẽ quyết định những khó khăn họ gặp trong cuộc sống tiếp theo. Bằng cách hoàn thiện tâm hồn trong mỗi cuộc sống mới, người Ấn độ giáo tin rằng một cá nhân cuối cùng có thể lên được cõi niết bàn, một trạng thái tâm linh hoàn hảo thoát khỏi kiếp luân hồi. Nhiều người Ấn độ giáo tin rằng để lên được cõi niết bàn thì phải có lối sống khổ hạnh giản dị, không màng đến thú vui vật chất và thể xác, cống hiến cuộc đời cho việc tìm kiếm sự cứu rỗi về mặt tinh thần hơn là vật chất. Ý nghĩa kinh tế của Ấn Độ giáo Max Weber, người nổi tiếng với những giải thích chi tiết về đạo đức làm việc của đạo Tin Lành, cho rằng các tư tưởng khổ hạnh trong Ấn Độ giáo không khuyến khích tinh thần khởi nghiệp tạo ra của cải mà chúng ta thấy trong đạo Tin lành. Theo Weber, các giá trị truyền thống của Ấn độ giáo nhấn mạnh rằng cá nhân được đánh giá không phải bởi những thành tựu vật chất mà là những thành tựu tâm linh của họ. Ấn độ giáo coi việc theo đuổi vật chất làm cho việc lên được cõi niết bàn khó khăn hơn. Với sự nhấn mạnh về một lối sống khổ hạnh, Weber cho rằng người sùng đạo Ấn độ giáo sẽ ít có khả năng tham gia vào các hoạt động kinh doanh hơn những người sùng đạo Tin Lành. Mahatma Gandhi, nhà dân tộc học và nhà lãnh đạo tinh thần nổi tiếng người Ấn Độ, là hiện thân rõ ràng của chủ nghĩa khổ hạnh Ấn độ giáo. Có lập luận cho rằng các giá trị của chủ nghĩa khổ hạnh Ấn độ giáo và sự tự chủ mà Gandhi chủ trương đã có một tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế của Ấn độ sau độc lập. Nhưng những lập luận của Weber chỉ nên mang tính tham khảo. Ấn Độ hiện đại là một xã hội kinh doanh rất năng động, và hàng triệu doanh nhân làm việc chăm chỉ là xương sống cho nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng này. Trong lịch sử, Ấn Độ giáo là trụ cột cho hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ. Các khái niệm về khả năng thay đổi địa vị cá nhân giữa các đẳng cấp không có ý nghĩa với người Ấn độ giáo truyền thống. Ấn độ giáo xem khả năng thay đổi địa vị cá nhân giữa các đẳng cấp chỉ có thể đạt được thông qua sự tiến triển về tinh thần và kiếp luân hồi. Một cá nhân có thể được tái sinh vào một đẳng cấp cao hơn trong cuộc sống tiếp theo của mình nếu người ấy đạt được sự phát triển về tinh thần trong cuộc sống này. Theo nhiều nhà quan sát, mặc dù hệ thống đẳng cấp đã bị bãi bỏ ở Ấn Độ nhưng nó vẫn để lại những dấu ấn rất sâu đậm trong cuộc sống của người Ấn độ. Trong chừng mực hệ thống đẳng cấp hạn chế cơ hội cá nhân đảm nhận những vị trí trách nhiệm và có tầm ảnh hưởng trong xã hội, hậu quả kinh tế của tín ngưỡng tôn giáo này có phần tiêu cực. Ví dụ, trong một tổ chức kinh doanh, các cá nhân có khả năng nhất tìm thấy con đường của họ để phát triển lên một cấp cao hơn trong tổ chức nhưng bị chặn lại, đơn giản chỉ vì họ xuất thân từ đẳng cấp thấp hơn. Tương tự, một cá nhân có thể được thăng tiến đến vị trí cao hơn trong công ty phần nhiều vì nền tảng đẳng cấp chứ không phải vì năng lực của họ. Phật giáo 20 TIÊU ĐIỂM QUẢN TRỊ DMG – Thượng Hải Năm 1993, Dan Mintz, một đạo diễn phim làm việc tự do người New York, chuyển đến Trung Quốc trong hoàn cảnh không có địa chỉ liên lạc, không có kinh nghiệm trong lĩnh vực quảng cáo, và không biết tiếng phổ thông Trung Quốc. Đến năm 2006, ông thành lập công ty DMG ở Trung Quốc, nổi lên như một trong những công ty quảng cáo phát triển nhanh nhất Trung Quốc với danh sách khách hàng bao gồm Budweiser, Unilever, Sony, Nabisco, Audi, Volkswagen, China Mobile, và hàng chục nhãn hiệu Trung Quốc khác. Mintz cho rằng thành công của ông nhờ phần lớn vào cái mà người Trung Quốc gọi là guanxi. Guanxi có nghĩa là các mối quan hệ, trong bối cảnh kinh doanh tốt hơn nên hiểu nó là những quan hệ hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau. Guanxi có nguồn gốc trong triết học Nho giáo coi trọng hệ thống phân chia giai tầng xã hội và các nghĩa vụ có tính tương hỗ. Ý thức hệ Nho giáo có lịch sử 2.000 năm ở Trung Quốc, nhấn mạnh tầm quan trọng của các mối quan hệ, kể cả trong gia đình và mối quan hệ giữa chủ và tớ. Hệ tư tưởng Nho giáo dạy rằng mọi người được sinh ra vốn không bình đẳng. Trong tư tưởng Nho giáo, lòng trung thành và nghĩa vụ đối với cấp trên (hoặc gia đình) của một người được coi là một nhiệm vụ thiêng liêng, nhưng lòng trung thành cũng phải được đáp trả. Người cấp trên trong xã hội có nghĩa vụ tưởng thưởng cho sự trung thành của cấp thấp hơn của mình bằng cách ban “may mắn” cho họ; do đó, các nghĩa vụ là mối quan hệ có tính chất tương hỗ. Ngày nay, người Trung Quốc thường xuyên nuôi dưỡng guanxiwang, “mạng lưới các mối quan hệ,” để giúp đỡ lẫn nhau. Các nghĩa vụ có qua có lại là chất keo kết dính các mạng lưới này. Nếu những nghĩa vụ trên không được đáp ứng – hay những đặc ân không được đáp trả – danh tiếng của người vi phạm sẽ bị lu mờ, và người đó khó có thể nhận tiếp sự giúp đỡ từ mạng lưới guanxiwang của mình trong tương lai. Như vậy, mối đe dọa tiềm ẩn bị trừng phạt đảm bảo rằng ân huệ được hoàn trả, nghĩa vụ được đáp ứng, và các mối quan hệ tôn trọng nhau. Trong một xã hội mà không có truyền thống pháp lý dựa trên nguyên tắc chặt chẽ, và do đó không có cách thức về mặt pháp luật để khắc phục những sai phạm nếu phá vỡ các thỏa thuận kinh doanh, guanxi là một cơ chế quan trọng để xây dựng các mối quan hệ làm ăn lâu dài và đảm bảo cho việc kinh doanh được thực hiện ở Trung Quốc. Như một sự thừa nhận ngầm, nếu anh có guanxi phù hợp, anh không cần thực hiện theo quy định của pháp luật. Mintz, người bây giờ đã thông thạo tiếng phổ thông của Trung Quốc, gây dựng mạng guanxiwang của mình bằng cách hợp tác kinh doanh với hai thanh niên trẻ Trung Quốc, Bing Wu và Peter Xiao, là người vốn có sẵn các mối quan hệ. Bing Wu, đảm trách hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, là một cựu vô địch thể dục dụng cụ quốc gia, dùng uy tín để tiếp cận với doanh nghiệp và quan chức chính phủ. Peter Xiao xuất thân trong một gia đình quân đội với nhiều mối quan hệ chính trị. Cùng với nhau, cả ba có thể có được những cơ hội tốt mà các công ty quảng cáo phương Tây dù đã thành lập lâu đời cũng không có được. Họ làm được dựa vào phần lớn các mối liên lạc của Wu và Xiao, và xây dựng những mối quan hệ này để thực hiện các công việc trôi chảy. Trường hợp điển hình là chiến dịch quảng cáo của DMG cho Volkswagen đã giúp công ty của Đức này trở nên phổ biến ở Trung Quốc. Quảng cáo sử dụng các ký tự truyền thống của Trung Quốc, vốn bị cấm do Chủ tịch Mao Trạch Đông trong cuộc cách mạng văn hóa ủng hộ các phiên bản đơn giản hóa. Để được phép sử dụng các ký tự đó trong phim ảnh và in ấn quảng cáo – điều đầu tiên ở Trung Quốc hiện đại, ba người họ đã phải dựa vào mối liên hệ với chính quyền cấp cao ở Bắc Kinh. Họ đã thuyết phục được các quan chức bằng cách cho rằng các ký tự cũ không được coi là “ký tự” mà là nghệ thuật. Sau đó, họ quay quảng cáo trên tivi tại Bến Thượng Hải nổi tiếng, một đại lộ đông đúc chạy dọc bờ sông của thành phố cổ. Dựa vào mối quan hệ với chính phủ, họ có thể đóng cửa Bến Thượng Hải để thực hiện buổi quay. Steven Spielberg đã có thể đóng cửa chỉ một phần đường phố khi ông quay phim Empire of the Sun vào năm 1986. DMG cũng quay bên trong Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh, mặc dù theo pháp luật thì không cho phép. Sử dụng các mối quan hệ, Mintz thuyết phục chính phủ thay đổi luật cho phép họ quay trong 24 giờ. Như Mintz đã nói, “Chúng tôi không đầu hàng các quy định. Bất cứ nơi nào bạn đến đều có thể gặp trở ngại. Bạn phải biết cách đi vòng và công việc sẽ được giải quyết”. 21 Ngôn ngữ LO2 Điều dễ thấy cho sự khác nhau giữa các quốc gia là ngôn ngữ. Ngôn ngữ ở đây bao gồm cả ngôn ngữ nói và các cách thức giao tiếp không bằng lời nói hay ngôn ngữ cử chỉ. Ngôn ngữ là một trong những đặc điểm xác định của nền văn hóa. Ngôn ngữ nói Ngôn ngữ không chỉ là phương thức để mọi người giao tiếp với nhau. Bản chất của ngôn ngữ cũng thể hiện cách chúng ta nhận thức thế giới. Ngôn ngữ của xã hội có thể thu hút sự chú ý của các thành viên trong xã hội đến các mặt nhất định của thế giới. Ví dụ minh họa điển hình cho vấn đề này là tiếng Anh vốn chỉ có một từ “snow” (tuyết), nhưng ngôn ngữ của người Inuit (người Eskimos) lại không có một từ chung nói về tuyết. Vì phân biệt các dạng thức khác nhau của tuyết là rất quan trọng trong cuộc sống của người Inuit, họ có đến 24 từ mô tả các loại tuyết khác nhau (ví dụ, bột tuyết, tuyết rơi, tuyết ướt, tuyết lở). Bởi vì ngôn ngữ hình thành cách thức con người nhìn nhận thế giới, nó cũng giúp xác định nền văn hóa. Những quốc gia có nhiều hơn một ngôn ngữ thường có nhiều hơn một nền văn hóa. Canada có một nền văn hóa nói tiếng Anh và một nền văn hóa nói tiếng Pháp. Căng thẳng giữa hai nhóm có thể dẫn đến cao trào, với một tỷ lệ đáng kể thiểu số nói tiếng Pháp đòi tách khỏi Canada vốn “bị chi phối bởi những người nói tiếng Anh.” Hiện tượng tương tự có thể quan sát thấy trong rất nhiều quốc gia khác. Nước Bỉ cũng được chia thành hai vùng nói tiếng Hà Lan và vùng nói tiếng Pháp, và căng thẳng giữa hai nhóm vẫn tồn tại; tại Tây Ban Nha, thiểu số người nói tiếng Basque với văn hóa đặc biệt riêng cũng đang kích động đòi tách khỏi đa số người nói tiếng Tây Ban Nha trong nhiều thập kỷ; trên hòn đảo Síp ở Địa Trung Hải, sự phân chia văn hoá giữa nhóm người nói tiếng Hy Lạp và nhóm người nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ bắt nguồn từ cuộc xung đột vào những năm 1970, và đến nay hòn đảo hiện được chia thành hai phần. Tuy không hẳn sự khác biệt về ngôn ngữ sẽ dẫn đến sự khác biệt về văn hóa (ví dụ Thụy Sĩ là quốc gia rất hoà hợp với bốn ngôn ngữ), tuy nhiên cũng có xu thế theo hướng phân lập. Trung Quốc là tiếng mẹ đẻ của số đông người nhất trên thế giới, tiếp theo là tiếng Anh và Tiếng Ấn độ, được sử dụng tại Ấn Độ. Tuy nhiên, ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới là tiếng Anh, tiếp theo là Pháp, Tây Ban Nha và tiếng Trung Quốc (nhiều người nói tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai). Tiếng Anh ngày càng trở thành ngôn ngữ trong kinh doanh quốc tế. Khi một doanh nhân người Nhật và người Đức gặp nhau, gần như chắc chắn rằng họ sẽ giao tiếp bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, mặc dù tiếng Anh được sử dụng rộng rãi, việc sử dụng ngôn ngữ địa phương cũng có những thuận lợi rất lớn. Hầu hết mọi người thích nói chuyện bằng ngôn ngữ riêng của họ, và việc nói được ngôn ngữ địa phương có thể xây dựng mối quan hệ, điều rất quan trọng trong giao dịch kinh doanh. Doanh nghiệp kinh doanh quốc tế mà không hiểu ngôn ngữ địa phương có thể làm hỏng việc nếu không có phiên dịch tốt. Ví dụ, Công ty Sunbeam sử dụng từ tiếng Anh “Mist-Stick” cho dụng cụ kim loại để uốn tóc bằng hơi nước, khi bước chân vào thị trường Đức, sau một chiến dịch quảng cáo tốn kém mới phát hiện ra rằng mist trong tiếng Đức có nghĩa là chất thải (phân). General Motors cũng gặp rắc rối bởi sự hờ hững của các đại lý Puerto Rico cho loại xe Chevrolet Nova mới của hãng. Khi dịch nghĩa sang tiếng Tây Ban Nha, “nova” có nghĩa là ngôi sao. Tuy nhiên, khi đọc, âm của nó có vẻ như “no va”, mà trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “nó không đi được.” General Motors đã phải thay đổi tên của chiếc xe mới thành Caribe. Ngôn ngữ cử chỉ 22 Ngôn ngữ cử chỉ là cách giao tiếp không bằng lời nói. Tất cả chúng ta giao tiếp với nhau bởi một loạt các tín hiệu phi ngôn từ. Ví dụ như rướn lông mày, ở hầu hết quốc gia là một cử chỉ khi người ta nhận ra một điều gì đó mới, trong khi nụ cười là biểu hiện của niềm vui. Nhiều ngôn ngữ cử chỉ giới hạn trong nền văn hóa của ngôn ngữ đó. Hiểu sai hoặc không hiểu những ngôn ngữ cử chỉ của nền văn hóa khác có thể thất bại trong giao tiếp. Ví dụ, ngón cái và ngón trỏ làm thành vòng tròn bằng là một cử chỉ thể hiện sự thân thiện ở Hoa Kỳ, nhưng nó là một lời mời gợi tình thô lỗ ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Tương tự như vậy, trong khi hầu hết người Mỹ và người châu Âu sử dụng cử chỉ ngón tay cái giơ lên để cho biết rằng “mọi việc đều đúng hay ổn” thì ở Hy Lạp đó lại là cử chỉ tục tĩu. Một khía cạnh khác của giao tiếp phi ngôn từ là không gian cá nhân, là khoảng cách phù hợp giữa bạn và người đối diện mà bạn đang nói chuyện. Tại Hoa Kỳ, khoảng cách thông thường được chấp nhận bởi các bên khi thảo luận kinh doanh là năm đến tám feet. Ở Châu Mỹ Latinh là ba đến năm feet. Do đó, nhiều người Bắc Mỹ một cách vô thức cảm thấy người Châu Mỹ La tinh đang xâm phạm không gian cá nhân của họ và có thể lùi lại xa hơn trong cuộc trò chuyện. Thật vậy, người Mỹ có thể cảm thấy người Latin hung hăng và kiêu ngạo. Ngược lại, người Mỹ Latinh cho rằng việc người Mỹ lùi ra xa có nghĩa là thái độ xa cách. Kết quả đáng tiếc là hai đối tác kinh doanh không tạo được mối quan hệ tốt chỉ vì sự khác biệt về văn hóa. Giáo dục Giáo dục chính quy đóng một vai trò quan trọng trong xã hội. Giáo dục là phương tiện mà qua đó các cá nhân tìm hiểu nhiều kĩ năng về ngôn ngữ, khái niệm và toán học vốn rất cần thiết trong xã hội hiện đại. Giáo dục chính quy hỗ trợ gia đình trong việc giúp thế hệ trẻ hòa nhập với các giá trị và chuẩn mực của xã hội. Các giá trị và chuẩn mực được dạy một cách trực tiếp và gián tiếp. Thông thường trường học dạy các thực tế cơ bản về bản chất xã hội và bản chất chính trị của xã hội. Trường học cũng tập trung vào dạy các nghĩa vụ cơ bản của công dân. Chuẩn mực văn hóa cũng được dạy gián tiếp tại trường. Tôn trọng người khác, vâng lời cấp trên, trung thực, ngăn nắp, đúng giờ, v.v… là tất cả các phần trong “chương trình ẩn” của nhà trường. Việc sử dụng một hệ thống đánh giá xếp loại cũng dạy cho con trẻ biết giá trị của thành tích cá nhân và tính cạnh tranh. Ở góc độ kinh doanh quốc tế, giáo dục cũng là một yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia. Có được nguồn nhân lực có tay nghề và có trình độ học vấn là một yếu tố quyết định khả năng thành công về kinh tế của một quốc gia. Ví dụ, khi phân tích sự thành công trong cạnh tranh của Nhật Bản kể từ năm 1945, Michael Porter nhấn mạnh rằng, sau chiến tranh, Nhật Bản hầu như không có gì ngoại trừ một nguồn nhân lực có tay nghề và có trình độ học vấn cao. Với truyền thống lâu đời tôn trọng giáo dục, Nhật Bản sở hữu nguồn nhân lực có học thức, có giáo dục, và ngày càng có tay nghề cao... Nhật Bản đã được hưởng lợi từ một nguồn nhân lực lớn các kỹ sư được đào tạo. Số kỹ sư tốt nghiệp đại học ở Nhật Bản bình quân đầu người nhiều hơn ở Hoa Kỳ... Một hệ thống giáo dục tiểu học và trung học hạng nhất ở Nhật Bản hoạt động dựa trên các tiêu chuẩn cao và nhấn mạnh về toán và khoa học. Giáo dục tiểu học và trung học mang tính cạnh tranh rất cao... Giáo dục Nhật Bản cung cấp cho hầu hết học sinh trên toàn nước Nhật một nền giáo dục vững chắc cho việc học tập và đào tạo cao hơn. Học sinh tốt nghiệp trung học ở Nhật Bản biết nhiều về toán học như hầu hết sinh viên tốt nghiệp đại học ở Mỹ. Luận điểm của Porter cho rằng hệ thống giáo dục xuất sắc của Nhật Bản là một yếu tố quan trọng giải thích cho sự thành công trong kinh tế sau chiến tranh ở đất nước này. Một hệ thống giáo dục tốt không chỉ là yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia, mà nó còn là 25 Các kết quả của Hofstede đưa ra cách nhìn rất lý thú về sự khác biệt của các nền văn hoá thay cho cách hiểu chung chung trước đây. Những phát hiện của Hofstede phù hợp với kiểu khác biệt văn hóa đặc trưng của người phương Tây. Ví dụ, nhiều người tin rằng người Mỹ đề cao tính cá nhân và bình đẳng hơn người Nhật (họ có một khoảng cách quyền lực thấp hơn), người Nhật lại có tính cá nhân và bình đẳng hơn người Mexico. Tương tự như vậy, nhiều người đồng tình rằng các nước Latinh như Mexico nhấn mạnh đến giá trị nam tính nhiều hơn - họ là nền văn hóa đề cao nam tính - hơn các nước Bắc Âu như Đan Mạch và Thụy Điển. Tuy nhiên, nghiên cứu của Hofstede chỉ nên mang tính tham khảo. Nghiên cứu này bị chỉ trích ở một số điểm. Một là, Hofstede giả định có sự tương ứng một-một giữa văn hóa và nhà nước quốc gia, nhưng như chúng ta đã thấy trước đó, nhiều quốc gia có nhiều hơn một nền văn hóa. Kết quả của Hofstede không thấy rõ sự khác biệt này. Thứ hai, nghiên cứu bị ràng buộc về văn hóa. Nhóm nghiên cứu bao gồm các thành viên người châu Âu và Mỹ. Bảng câu hỏi cho nhân viên IBM và phân tích của họ về các câu trả lời có thể bị ảnh hưởng bởi những định kiến văn hoá và những mối quan tâm riêng của họ. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi kết quả của Hofstede khẳng định đặc trưng của người phương Tây vì nó được người phương Tây tiến hành nghiên cứu. Thứ ba, những đối tượng trả lời trong bảng hỏi của Hofstede chỉ làm việc trong một ngành công nghiệp duy nhất, ngành công nghiệp máy tính, và cũng chỉ làm trong công ty IBM. Vào thời điểm đó, IBM nổi tiếng với nền văn hóa doanh nghiệp mạnh và quá trình tuyển chọn nhân viên chặt chẽ, cho nên quan niệm về giá trị của các nhân viên IBM có thể khác ở một số khía cạnh quan trọng so với giá trị của nền văn hóa mà họ xuất thân. Ngoài ra, trong bộ mẫu của Hofstede đã loại trừ một số tầng lớp xã hội nhất định (chẳng hạn như công nhân thủ công không có tay nghề). Điều cuối cùng là nghiên cứu của Hofstede tính đến bây giờ đã trở nên lỗi thời. Văn hóa không bao giờ bất biến; nó luôn phát triển, mặc dù chậm. Những đặc tính được mô tả có thể hợp lý trong những năm 1960 và 1970 có thể không còn phù hợp với ngày hôm nay. Tuy nhiên, nghiên cứu của Hofstede cũng có một số ý nghĩa nhất định. Nghiên cứu đã đưa ra một xuất phát điểm cho các nhà quản lý khi cố gắng chỉ ra sự khác biệt giữa các nền văn hóa và ý nghĩa của chúng đối với hoạt động quản lý. Ngoài ra, một số học giả khác đã tìm thấy bằng chứng thuyết phục cho rằng sự khác biệt về văn hóa có ảnh hưởng đến giá trị và thực hiện các giá trị tại nơi làm việc, và kết quả cơ bản của Hofstede đã được nhân rộng trong các bộ mẫu về cá nhân đa dạng hơn và trong các môi trường khác nhau. Tuy nhiên, các nhà quản lý nên thận trọng khi sử dụng các kết quả này, vì không phải bao giờ các kết quả này cũng luôn luôn đúng. Hofstede sau đó đã mở rộng nghiên cứu ban đầu của mình, đưa ra thêm tiêu chí thứ năm chưa đề cập ở nghiên cứu trước đó. Ông gọi tiêu chí này là “Thuyết động lực Nho giáo” (đôi khi được gọi là định hướng lâu dài). Theo Hofstede, thuyết động lực Nho giáo đo lường thái độ đối với thời gian, sự kiên trì, thứ tự cấp bậc, bảo vệ sĩ diện, tôn trọng truyền thống, và sự đáp trả với quà tặng và những đặc ân. Tên gọi này đề cập đến các “giá trị” bắt nguồn từ giáo lý Nho giáo. Đúng như giả thiết, các nước Đông Á như Nhật Bản, Hồng Kông, và Thái Lan có điểm số cao ở thước đo thuyết động lực của Nho giáo, trong khi các quốc gia khác như Hoa Kỳ và Canada lại có điểm số thấp. Hofstede và các cộng sự lập luận rằng, bằng chứng của họ cho thấy các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn thì có điểm số cao ở thước đo thuyết động lực Nho giáo và thấp ở thước đo tính cá nhân, ngụ ý rằng Nho giáo tốt cho sự tăng trưởng. Tuy nhiên, bằng nhiều kĩ thuật phân tích thống kê phức tạp, các nghiên cứu sau đó chỉ ra rằng luận điểm này không hoàn toàn đúng. Trong suốt thập kỷ vừa qua, các quốc gia có chủ nghĩa cá nhân cao và thuyết động lực Nho giáo thấp như Hoa Kỳ đã đạt được mức tăng trưởng cao, trong khi một số nền văn hóa Nho giáo như Nhật Bản lại có sự tăng trưởng kinh tế trì trệ. Trong thực tế, mặc dù văn hóa có thể ảnh hưởng đến sự thành công trong kinh tế của một quốc gia, tuy nhiên nó chỉ là một trong nhiều yếu tố, và tầm quan 26 trọng của nó không nên bỏ qua cũng không nên phóng đại quá mức. Các yếu tố được thảo luận trong Chương 2 - hệ thống kinh tế, chính trị và pháp luật - có thể quan trọng hơn yếu tố văn hóa trong việc giải thích sự khác biệt trong tốc độ tăng trưởng kinh tế theo thời gian. Sự thay đổi văn hóa LO5 Văn hóa không phải là khái niệm tĩnh mà thay đổi theo thời gian. Những thay đổi trong hệ thống các giá trị có thể chậm và gây tổn thương cho xã hội. Ví dụ, trong những năm 1960, các giá trị của văn hoá Mỹ đối với vai trò của phụ nữ, tình yêu, tình dục và hôn nhân có nhiều thay đổi đáng kể. Các rối loạn xã hội vào thời điểm đó phản ánh sự thay đổi này. Tuy vậy, sự thay đổi vẫn xảy ra và thường là những thay đổi sâu sắc. Tiêu biểu là vào đầu những năm 1960, quan niệm cho rằng phụ nữ có thể giữ những vị trí quản lý cấp cao trong các tập đoàn lớn không được chấp nhận rộng rãi. Nhiều người giễu cợt quan niệm này. Ngày nay, nó là một thực tế, và rất ít người trong xã hội Mỹ nghi ngờ về sự phát triển hay năng lực của phụ nữ trong môi trường kinh doanh. Văn hóa Mỹ đã thay đổi (mặc dù vẫn khó khăn hơn cho phụ nữ để đạt được vị trí quản lý cấp cao so với nam giới). Tương tự như vậy, hệ giá trị của nhiều quốc gia đã từng là chủ nghĩa Cộng sản, như Nga, đang trải qua những thay đổi đáng kể khi các quốc gia dần bỏ xa các giá trị nhấn mạnh tính tập thể và hướng về các giá trị đề cao tính cá nhân. Tuy rối loạn xã hội là kết quả tất yếu của thay đổi, nhưng sự thay đổi vẫn có thể xảy ra. Tương tự, một số người cũng cho rằng một sự thay đổi văn hóa lớn đã xảy ra ở Nhật Bản, với sự dịch chuyển hướng về chủ nghĩa cá nhân. Hình mẫu nhân viên văn phòng Nhật Bản, một “người làm công ăn lương”, được mô tả là người trung thành với cấp trên và tổ chức đến độ sẵn sàng dành các buổi tối, ngày nghỉ cuối tuần và các kỳ nghỉ lễ để phục vụ tổ chức hay tập thể mà anh ta là một thành viên trong đó. Tuy nhiên, thế hệ mới của nhân viên văn phòng Nhật không còn theo hình mẫu cũ nữa. Cá nhân trong thế hệ mới có vẻ thẳng thắn hơn so với người Nhật truyền thống. Anh ta cư xử giống người phương Tây hơn, gọi là một gaijian. Anh ta không sống vì công ty và sẽ rời bỏ công ty nếu có công việc khác tốt hơn. Anh ta không kiên nhẫn làm thêm giờ, đặc biệt khi anh ấy đang hẹn hò. Anh ta có kế hoạch riêng cho thời gian rảnh rỗi, trong đó không có chuyện đi uống rượu hay chơi golf với sếp. Một số nghiên cứu cho thấy sự tiến bộ kinh tế và toàn cầu hóa có thể là những yếu tố quan trọng làm nên sự thay đổi xã hội. Ví dụ, có bằng chứng cho thấy sự tiến bộ kinh tế đi kèm với sự thay đổi trong giá trị, rời xa chủ nghĩa tập thể và hướng về chủ nghĩa cá nhân. Do vậy, khi Nhật Bản trở nên giàu có hơn, văn hoá đề cao tính tập thể giảm xuống và tính cá nhân phát triển hơn. Lý do cho sự thay đổi này có thể là trong các xã hội giàu hơn thì ít cần đến các cấu trúc hỗ trợ về vật chất và xã hội tạo nên tính tập thể, bất kể tập thể đó là đại gia đình hay công ty theo chế độ gia trưởng. Cá nhân có thể chăm sóc nhu cầu riêng của họ tốt hơn. Kết quả là, tầm quan trọng phải gắn kết với tập thể giảm xuống, trong khi quyền tự do kinh tế lớn hơn dẫn đến sự gia tăng cơ hội thể hiện chủ nghĩa cá nhân. Văn hóa xã hội cũng có thể thay đổi khi xã hội giàu có hơn, vì tiến bộ kinh tế ảnh hưởng đến một số yếu tố khác, và đến lượt các yếu tố này lại ảnh hưởng đến văn hóa. Ví dụ, việc gia tăng tốc độ đô thị hóa và nâng cao chất lượng lẫn số lượng của giáo dục đều phụ thuộc vào tiến bộ kinh tế, và đến lượt hai yếu tố này lại làm cho các giá trị truyền thống trong những xã hội nông thôn nghèo khó không còn được chú trọng. Có một nghiên cứu về giá trị ở 78 quốc gia qua 25 năm, gọi là Bảng khảo sát các giá trị của thế giới, được thực hiện bởi Viện Nghiên cứu Xã hội - Đại học Michigan, ghi nhận cách thức các giá trị thay đổi. Nghiên cứu liên kết sự thay đổi trong giá trị với những thay đổi trong mức độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Theo nghiên cứu này, khi các quốc gia giàu hơn, có một sự dịch chuyển rời xa “các giá trị truyền thống” liên quan đến tôn giáo, gia đình và đất nước, hướng tới các giá trị “thế tục hợp lý”. Những người theo chủ nghĩa truyền thống cho rằng tôn giáo rất quan trọng 27 trong cuộc sống của họ. Họ có ý thức mạnh mẽ về sự tự hào dân tộc; họ nghĩ rằng trẻ em cần được dạy dỗ để vâng lời và nhiệm vụ đầu tiên của đứa trẻ là làm cho cha mẹ tự hào. Họ cho rằng những vấn đề như phá thai, cái chết nhẹ nhàng, ly hôn, và tự tử không bao giờ là chính đáng. Ở một thái cực khác, những điều trên gọi là các giá trị “thế tục hợp lý”. Một phạm trù khác trong Bảng khảo sát các giá trị của thế giới là chất lượng các thuộc tính của cuộc sống. Ở một thái cực, đây là những “giá trị mang tính sống còn”, là những giá trị mà con người nắm giữ khi phải đấu tranh cho sự sinh tồn. Những giá trị này có xu hướng nhấn mạnh sự an toàn về kinh tế và thể chất quan trọng hơn sự tự thể hiện bản thân. Giả dụ như khi con người không có thức ăn hay không thấy an toàn thì có xu hướng bài ngoại, lo ngại các hoạt động chính trị, có khuynh hướng độc đoán, và tin rằng đàn ông làm lãnh đạo chính trị tốt hơn phụ nữ. Những giá trị của “sự tự thể hiện bản thân” hoặc giá trị “phúc lợi” nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đa dạng, của cải và sự tham gia vào các quá trình chính trị. Khi các quốc gia giàu hơn, dường như có sự thay đổi từ giá trị “truyền thống” sang giá trị “thế tục hợp lý” và từ “giá trị sống còn” sang giá trị “phúc lợi”. Tuy nhiên, những thay đổi đều cần thời gian, do là mỗi cá nhân được đóng khuôn vào các giá trị cũ từ khi họ còn nhỏ và khó khăn để thay đổi khi họ trưởng thành. Những thay đổi lớn về giá trị có liên quan đến nhiều thế hệ và lớp trẻ thường là những người tiên phong trong các thay đổi này. Đề cập đến vấn đề toàn cầu hóa, có người cho rằng những tiến bộ trong giao thông vận tải, công nghệ thông tin liên lạc, sự gia tăng đáng kể trong thương mại kể từ sau Thế chiến thứ hai, sự phát triển của các tập đoàn toàn cầu như Hitachi, Disney, Microsoft và Levi Strauss với các sản phẩm và hoạt động trên khắp toàn cầu, đang tạo điều kiện cho sự hợp nhất và hội tụ của các nền văn hóa. Hamburger của McDonald ở Trung Quốc, The Gap ở Ấn Độ, máy nghe nhạc iPods ở Nam Phi, và MTV ở mọi nơi đã tạo ra nền văn hóa thế hệ trẻ đồng nhất ở khắp nơi, và khi các quốc gia trên thế giới càng tiến bộ về kinh tế thì sự khác biệt về văn hóa càng được giảm bớt. Nói cách khác, có một sự hội tụ chậm nhưng vững chắc giữa các văn hóa khác nhau hướng về những giá trị và chuẩn mực chung trên toàn cầu: Điều này gọi là giả thuyết về sự hội tụ. Phải nhấn mạnh rằng, hiện nay có sự gia tăng những xu hướng đối lập chính mà con người không thể bỏ qua, như sự chuyển dịch hướng về chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan ở một số quốc gia; phong trào ly khai ở Quebec, Canada; các căng thẳng chủng tộc đang leo thang và các phong trào ly khai ở Nga. Những xu hướng ngược chiều theo nhiều cách là sự phản ứng lại áp lực hội tụ về văn hóa. Trong thế giới ngày càng hiện đại và thiên nhiều về vật chất, một số xã hội đang cố gắng nhấn mạnh tầm quan trọng của cội nguồn văn hóa và tính độc đáo về văn hoá. Sự thay đổi văn hóa có tính chất đa chiều, trong đó các nền văn hóa quốc gia hội tụ thành một số đặc tính đồng nhất trên toàn cầu. Cũng quan trọng khi lưu ý rằng tuy một số yếu tố của văn hóa thay đổi khá nhanh chóng, đặc biệt là việc tiêu dùng các sản phẩm vật chất, thì các yếu tố khác lại thay đổi rất chậm chạp. Do đó, nhìn vào việc mọi người trên thế giới mặc quần jean xanh, ăn McDonald, sử dụng điện thoại di động, xem chương trình American idol dưới các phiên bản khác nhau ở từng quốc gia, chạy xe Ford đi làm trên các đường cao tốc, ta không nên cho rằng họ cũng chấp nhận các giá trị Mỹ (hay phương Tây). Để minh họa, giả dụ rằng rất nhiều người phương Tây ăn đồ ăn Trung Quốc, xem phim võ thuật Trung Quốc, và tham gia các lớp học võ kungfu, nhưng giá trị của họ vẫn là những giá trị của người phương Tây. Vì thế, cần phân biệt rõ những khía cạnh văn hóa vật chất hữu hình và những cấu trúc ẩn sâu bên trong, đặc biệt là những giá trị và chuẩn mực cốt lõi của xã hội. Sự thay đổi cấu trúc sâu bên trong diễn ra rất chậm, và sự khác biệt văn hoá ở đây bền vững hơn nhiều so với cái ta thường nghĩ. Các gợi ý cho nhà quản lý 30 Người ta cũng cho rằng văn hóa Nhật Bản ít thúc đẩy các hoạt động khởi nghiệp hơn so với xã hội Mỹ. Bằng nhiều cách, hoạt động khởi nghiệp là sản phẩm của tư duy đề cao tính cá nhân, không phải là một đặc trưng truyền thống của người Nhật Bản. Điều này có thể giải thích tại sao các doanh nghiệp Mỹ, chứ không phải là các công ty Nhật Bản, thống trị trong những ngành công nghiệp có tinh thần khởi nghiệp và sự sáng tạo được đánh giá cao, như phần mềm máy tính và công nghệ sinh học. Tất nhiên, vẫn có những trường hợp ngoại lệ rõ ràng và đặc biệt. Masayoshi Son đã nhận ra tiềm năng của lĩnh vực phần mềm nhanh hơn bất kỳ tập đoàn khổng lồ nào của Nhật Bản; thành lập nên công ty Softbank vào năm 1981; và xây dựng nó trở thành nhà phân phối phần mềm hàng đầu Nhật Bản trong suốt 30 năm qua. Tương tự như vậy, các cá nhân có tinh thần khởi nghiệp năng động đã thành lập nên các công ty lớn của Nhật Bản như Sony và Matsushita. Tuy những ví dụ này có thể là trường hợp ngoại lệ cho các quy luật đã nói ở trên, các doanh nghiệp công nghệ cao khởi nghiệp tại Nhật Bản vẫn không phát triển nhiều bằng những gì xảy ra ở Mỹ. Trong kinh doanh quốc tế, mối liên kết giữa văn hóa và lợi thế cạnh tranh là rất quan trọng vì hai lý do. Thứ nhất, mối liên kết cho thấy quốc gia nào có khả năng sản sinh ra nhiều công ty cạnh tranh hữu hiệu nhất. Ví dụ, người ta có thể lập luận rằng các doanh nghiệp Mỹ sẽ chứng kiến sự xuất hiện liên tục các đối thủ cạnh tranh xông xáo, hiệu quả về mặt chi phí từ những quốc gia vòng đai Thái Bình Dương, nơi có sự kết hợp của nền kinh tế thị trường tự do, tư tưởng Nho giáo, cấu trúc xã hội theo định hướng nhóm, và hệ thống giáo dục tiên tiến (ví dụ như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và ngày nay là cả Trung Quốc). Thứ hai, mối liên kết giữa văn hóa và lợi thế cạnh tranh có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn địa điểm đặt cơ sở sản xuất và làm kinh doanh. Hãy xem xét tình huống giả định khi công ty phải lựa chọn giữa hai quốc gia, A và B, cho việc đặt cơ sở sản xuất. Cả hai quốc gia đều có chi phí lao động thấp và là con đường tốt để tiếp cận với thị trường thế giới. Cả hai quốc gia đều có qui mô (về dân số) xấp xỉ nhau và đều trong cùng một giai đoạn phát triển kinh tế. Ở quốc gia A, hệ thống giáo dục chưa phát triển, xã hội được đặc trưng bởi sự phân chia giai tầng rõ rệt giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới, và có sáu nhóm ngôn ngữ chính. Ở quốc gia B, hệ thống giáo dục phát triển tốt, ít có sự phân chia giai tầng xã hội, văn hoá quốc gia đề cao giá trị nhóm, và chỉ sử dụng một ngôn ngữ. Vậy quốc gia nào sẽ là địa điểm tốt nhất để đầu tư? Có lẽ câu trả lời sẽ là quốc gia B. Trong quốc gia A, mâu thuẫn giữa tầng lớp quản lý và người lao động, giữa các nhóm ngôn ngữ khác nhau, có thể dẫn đến tranh chấp về mặt xã hội và tranh chấp trong công nghiệp, từ đó làm tăng chi phí kinh doanh. Việc thiếu hệ thống giáo dục tốt cũng có thể làm doanh nghiệp khó khăn hơn để đạt được mục tiêu kinh doanh. Cùng sử dụng cách thức so sánh tương tự như trên, nếu một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế đang cân nhắc chọn địa điểm để tung sản phẩm của mình ra thị trường, quốc gia A hay quốc gia B. Một lần nữa, quốc gia B sẽ là sự lựa chọn hợp lý bởi lẽ các yếu tố văn hóa cho thấy rằng trong dài hạn, quốc gia B là nước có nhiều khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất. Dù văn hóa là yếu tố rất quan trọng, nhưng vẫn còn nhiều yếu tố khác quan trọng hơn giải thích sự khác biệt trong tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, như hệ thống kinh tế, chính trị và pháp lý. Sự khác biệt về văn hóa là có ý nghĩa, nhưng chúng ta không nên quan trọng quá mức ý nghĩa của nó trong các vấn đề về kinh tế. Ví dụ, trước đó chúng ta đã đề cập rằng, Max Weber cho là các nguyên tắc khổ hạnh gắn liền với Ấn Độ giáo không khuyến khích hoạt động khởi nghiệp. Tuy luận điểm này thú vị về mặt học thuật, nhưng những năm gần đây hoạt động khởi nghiệp gia tăng đáng kể ở Ấn Độ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, ngành mà Ấn Độ đang nhanh chóng trở thành một đối thủ trọng yếu trên toàn cầu. Các nguyên tắc khổ hạnh của Ấn Độ giáo và sự phân chia giai tầng xã hội dựa trên hệ thống đẳng cấp đã không thể cản trở những hoạt động khởi doanh trong lĩnh vực này. 31 TÓM TẮT CHƯƠNG Chương này đã xem xét bản chất của văn hóa xã hội và nghiên cứu một số ý nghĩa đối với thực tiễn của hoạt động kinh doanh. Nội dung chính của chương bao gồm: 1. Văn hóa là một phức hệ gồm có kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán, và năng lực của con người khi là một thành viên trong xã hội. 2. Giá trị và chuẩn mực là những thành phần trung tâm của văn hóa. Giá trị là những khái niệm trừu tượng về những gì xã hội cho là tốt đẹp, là đúng đắn và mong muốn có được. Chuẩn mực là các quy tắc và hướng dẫn của xã hội quy định cách hành xử thích hợp trong các tình huống cụ thể. 3. Giá trị và chuẩn mực bị ảnh hưởng bởi triết lý chính trị và kinh tế, cấu trúc xã hội, tôn giáo, ngôn ngữ và giáo dục. 4. Cấu trúc xã hội của một xã hội đề cập đến tổ chức xã hội cơ bản. Các cấu trúc xã hội khác nhau ở hai tiêu chí chính đó là tiêu chí cá nhân – nhóm và tiêu chí phân chia giai tầng xã hội. 5. Trong một số xã hội, cá nhân là khối xây dựng cơ bản của tổ chức xã hội. Các xã hội này đặt thành tựu của cá nhân lên trên hết. Trong các xã hội khác, nhóm lại là khối xây dựng cơ bản của tổ chức xã hội. Các xã hội này nhấn mạnh đến tinh thần nhóm và thành tựu của nhóm lên trên hết. 6. Tất cả các xã hội đều được phân chia thành các tầng lớp khác nhau. Các xã hội có ý thức về giai cấp được đặc trưng bởi mức độ thấp khả năng thay đổi địa vị cá nhân và mức độ cao của sự phân chia giai tầng xã hội. Các xã hội ít có ý thức về giai cấp được đặc trưng bởi mức độ cao khả năng thay đổi địa vị cá nhân và mức độ thấp của sự phân chia giai tầng xã hội. 7. Tôn giáo được định nghĩa là một hệ thống tín ngưỡng và lễ nghi có ý nghĩa thiêng liêng về mặt tâm linh được một cộng đồng cùng chia sẻ. Hệ thống đạo đức là một tập hợp các nguyên tắc đạo đức, hay các giá trị, được dùng để hướng dẫn và định hình hành vi. Các tôn giáo lớn trên thế giới là Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo và Phật giáo. Mặc dù không phải là một tôn giáo, Nho giáo có tác động sâu sắc đến hành vi như nhiều tôn giáo khác. Hệ giá trị của hệ thống đạo đức và tôn giáo khác nhau có những ý nghĩa khác nhau đối với hoạt động kinh doanh. 8. Ngôn ngữ là một đặc trưng xác định văn hóa. Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ cử chỉ. Trong các quốc gia có nhiều hơn một ngôn ngữ nói, ta thường thấy có nhiều hơn một nền văn hoá. 9. Giáo dục chính quy là phương tiện mà qua đó con người học hỏi các kỹ năng và hoà nhập với các giá trị và chuẩn mực của xã hội. Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc xác định lợi thế cạnh tranh quốc gia. 10. Geert Hofstede đã nghiên cứu cách thức văn hóa liên quan đến giá trị tại nơi làm việc. Ông đúc kết thành bốn tiêu chí có thể giải thích cho sự khác biệt của các nền văn hóa: khoảng cách quyền lực, thái độ đối với rủi ro, tính cá nhân so với tính tập thể, và nam tính so với nữ tính. 11. Văn hóa không phải là một khái niệm tĩnh mà nó luôn phát triển. Tiến bộ về kinh tế và toàn cầu hóa dường như là hai động lực quan trọng cho sự thay đổi văn hóa. 12. Nguy cơ mà một công ty gặp phải khi ra nước ngoài lần đầu tiên là thiếu thông tin. Để phát triển kỹ năng hiểu biết sự khác biệt về văn hóa, doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần sử dụng lao động của nước chủ nhà, xây dựng lực lượng nòng cốt các nhà điều hành có tầm nhìn quốc tế, và chống lại nguy cơ của hành vi vị chủng. 13. Hệ thống giá trị và chuẩn mực của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến chi phí làm kinh doanh tại quốc gia đó. 32 Câu hỏi tư duy phản biện và câu hỏi thảo luận 1. Đưa ra lý do tại sao văn hóa của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh tại quốc gia đó. Minh họa bằng ví dụ. 2. Bạn có nghĩ rằng hoạt động kinh doanh trong một đất nước Hồi giáo có thể khác với hoạt động kinh doanh ở Mỹ? Nếu có, sự khác biệt ở đây là gì? 3. Những khác biệt trong hệ thống đạo đức và tôn giáo chính của một quốc gia có tác động như thế nào đối với doanh nghiệp kinh doanh quốc tế? 4. Chọn hai quốc gia có sự đa dạng về văn hóa. So sánh các nền văn hóa của hai quốc gia này và chỉ ra sự khác biệt văn hóa ảnh hưởng như thế nào đến (a) chi phí kinh doanh ở mỗi quốc gia, (b) khả năng phát triển kinh tế trong tương lai của quốc gia đó, và (c) các hoạt động kinh doanh. 5. Đọc lại Tiêu điểm quốc gia về chủ nghĩa tư bản Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó trả lời các câu hỏi sau: a. Bạn có thể nhận thấy điều gì trong các giá trị của Hồi giáo chống đối với việc kinh doanh? b. Kinh nghiệm của vùng xung quanh Kayseri dạy cho chúng ta điều gì về mối quan hệ giữa Hồi giáo và kinh doanh? c. Tác động của các giá trị Hồi giáo trong kinh doanh đối với sự tham gia vào nền kinh tế toàn cầu của một quốc gia như Thổ Nhĩ Kỳ là gì? 6. Đọc lại Tiêu điểm quản lý về DMG - Thượng Hải và trả lời các câu hỏi sau: a. Tại sao bạn cho rằng thiết lập các mối quan hệ kinh doanh - guanxi và guanxiwang - ở Trung Quốc là rất quan trọng? b. Kinh nghiệm của DMG cho chúng ta biết gì về cách thức làm việc ở Trung Quốc? Điều gì sẽ xảy ra khi một doanh nghiệp tuân theo tất cả các quy tắc và quy định, chứ không cố gắng tìm đường đi vòng như Dan Mintz đã làm? c. Các vấn đề đạo đức nào có thể phát sinh khi dựa vào mạng lưới guanxiwang để các giúp cho công việc được trôi chảy ở Trung Quốc? Điều này nói lên điều gì về hạn chế của việc sử dụng guanxiwang đối với một doanh nghiệp phương Tây tuân theo các tiêu chuẩn đạo đức chặt chẽ? Bài tập nghiên cứu Sự khác biệt về văn hoá Sử dụng trang web globalEDGE™ (globaledge.msu.edu) để hoàn thành các bài tập sau: Bài tập 1 Bạn đang chuẩn bị cho chuyến công tác đến Chi-lê, nơi bạn cần gặp gỡ với rất nhiều chuyên gia địa phương. Vì vậy, bạn cần xem xét thu thập thông tin về văn hóa và thói quen kinh doanh tại địa phương này trước khi khởi hành. Một đồng nghiệp ở châu Mỹ Latinh khuyên bạn truy cập vào “Trung tâm cho sự hiểu biết lẫn nhau về văn hoá” và đọc qua những giới thiệu về đất nước Chi-lê. Bạn hãy chuẩn bị mô tả ngắn gọn về các đặc điểm văn hóa nổi bật nhất có thể ảnh hưởng đến giao dịch kinh doanh tại đất nước này. Bài tập 2 Thông thường, các yếu tố văn hóa tạo nên sự khác biệt các nghi lễ xã giao trong kinh doanh thường gặp ở chuyến công tác của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Trong thực tế, nền văn hóa Trung Đông có sự khác biệt đáng kể về các nghi lễ xã giao trong kinh doanh hơn so với